Thuế Xuất Mfn

Thuế Xuất Mfn

Theo Hiệp hội Thép Việt Nam, bảo hộ sản xuất trong nước, áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại đang là xu hướng được các quốc gia lớn áp dụng. Qua thống kê ngành thép những năm vừa qua phải đối mặt với 66 vụ kiện, chiếm đa phần trong các vụ kiện về sản phẩm của Việt Nam tham gia xuất khẩu.

Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN)

Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc trong tiếng Anh là Most Favoured Nation, viết tắt là MFN. MFN là qui chế yêu cầu các bên tham gia trong quan hệ kinh tế - thương mại dành cho nhau những điều kiện ưu đãi không kém hơn những điều kiện ưu đãi mà mình dành cho các nước khác.

Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc - MFN trong hệ thống thương mại đa phương tạo ra sự bình đẳng về cơ hội cạnh tranh giữa các thành viên khi cùng vào thị trường của một thành viên nào đó.

- Mỗi nước thành viên dành cho hàng hóa và những đối tượng khác như dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ hay nhà đầu tư… (theo điều kiện cụ thể của các hiệp định) sự đãi ngộ cửa khẩu không kém phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ dành cho hàng hóa có xuất xứ từ một nước thành viên khác.

- Hàng hóa và dịch vụ có xuất xứ từ các nước thành viên được đãi ngộ như nhau trên thị trường tất cả các nước thành viên khác. MFN chỉ áp dụng đối với hàng hóa "giống hệt nhau" hoặc "tương tự nhau".

Hàng hóa "giống hệt nhau" nếu chúng giống nhau về mọi mặt, kể cả đặc tính vật lí, chất lượng và danh tiếng.

Hàng hóa "tương tự nhau" nếu chúng gần giống với hàng hóa đang được xác định trị giá về thành phần, vật liệu và các đặc điểm; bên cạnh đó chúng có thể thực hiện những chức năng giống nhau và có thể thay thế nhau về mặt thương mại. Việc xác định hàng hóa "tương tự nhau" thường rất khó khăn và gây tranh cãi giữa các bên.

Theo nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, khi gia nhập WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới), thành viên mới ngay lập tức được đối xử như các thành viên khác và cũng phải dành cho các thành viên khác qui chế MFN một cách không điều kiện. Tuy nhiên, MFN vẫn có ngoại lệ, ngoại lệ cho phép một nước có thể dành ưu đãi nhiều hơn cho một số nước; nhưng cũng có ngoại lệ cho phép tăng hàng rào đối với sản phẩm của nước đã sử dụng các biện pháp thương mại không bình đẳng với mình.

Ngoại lệ dành cho tất cả thành viên

- Các thành viên WTO nếu là thành viên của các khu vực thương mại tự do hoặc các liên minh hải quan, có ưu đãi, thì không bắt buộc phải dành các ưu đãi đó cho các nước thành viên khác không thuộc cùng một tổ chức.

- Các thành viên có thể áp dụng điều khoản "không áp dụng". Một thành viên có thể từ chối không cho thành viên mới được hưởng quyền lợi của hiệp định.

- Các thành viên có thể sử dụng điều khoản "miễn trừ". Điều khoản này là cơ sở pháp lí cho việc dành đối xử thuận lợi hơn đối với một số thành viên khác.

Ngoại lệ dành cho các thành viên có nền kinh tế đang phát triển

- Ngoại lệ với điều khoản "loại trừ các yêu sách đặc quyền cho các nước đang phát triển" (Waiver of reciprocity for developing states). Với ngoại lệ này, GATT không đòi hỏi các thành viên có nền kinh tế đang phát triển phải dành những đặc quyền thương mại cho các nước thành viên có nền kinh tế phát triển.

- Chế độ thuế quan ưu đãi phổ cập (Generalized System of Preference - GSP). Đây là biểu thuế quan ưu tiên (thuế suất bằng 0% hoặc thuế suất thấp) cho bên tham gia là các nước đang phát triển xuất khẩu các loại hàng hóa sang các thành viên có nền kinh tế phát triển mà không cần đáp ứng các yêu sách từ nước này.

- Những ưu quyền "Nam – Nam" (The south preferences): Phần lớn các nước đang phát triển nằm ở Nam bán cầu. Ngoại lệ này cho phép các nước đang phát triển được phép trao đổi ưu đãi về thuế quan cho nhau mà không bị buộc phải dành cho các nước đang phát triển.

Ngoại lệ dành cho các thành viên có nền kinh tế phát triển

Ngoại lệ dành cho các thành viên có nền kinh tế phát triển là chính sách hạn chế nhập khẩu. Ngoại lệ này cho phép các thành viên phát triển có quyền từ chối nhập khẩu từ các thành viên đang phát triển nếu việc nhập khẩu gây nguy hại đến thị trường trong nước.

(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Kinh tế quốc tế, NXB Tài chính)

Giảm thuế nhập khẩu MFN: Động lực để ngành thép nâng cao năng lực cạnh tranh

PV: Nghị định 101/2021/NĐ-CP được ban hành có nội dung giảm thuế suất thuế nhập khẩu MFN của một số sản phẩm thép xây dựng, thép tấm từ 5% đến 10% sau ngày 30/12/2021 nhằm góp phần giảm giá thép trong nước, thúc đẩy sản xuất, kiểm soát lạm phát… Ông bình luận như thế nào về chủ trương này?

Ông Nghiêm Xuân Đa: Đầu năm 2021, chúng tôi đã được nghiên cứu và góp ý vào dự thảo Nghị định 101/2021/NĐ-CP và đã có văn bản báo cáo Bộ Tài chính và Chính phủ.

Đến nay, Nghị định 101/2021/NĐ-CP được ban hành quy định giảm 5% – 10% với thép xây dựng và thép tôn mạ. Với nhận thức xét trên góc độ cân nhắc chung xuất phát từ lợi ích quốc gia, cân bằng hài hòa lợi ích giữa các mặt hàng chủ lực của các quốc gia khác, Hiệp hội Thép Việt Nam và các doanh nghiệp (DN) sản xuất thép cũng ủng hộ chủ trương này của Chính phủ và cơ quan quản lý nhà nước.

Với việc giảm thuế MFN thực sự DN sản xuất thép sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức trong thời gian tới. Nhưng chúng tôi xác định ở khía cạnh khó khăn thì đây sẽ là động lực, nhân tố thúc đẩy DN thép cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ hiện đại, xây dựng và điều chỉnh chiến lược kinh doanh, tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả, giảm chi phí sản xuất, phát triển các chuỗi giá trị, phát triển nguồn nguyên liệu trong nước để sản phẩm trong nước có thể cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.

PV: Xin ông có thể phân tích cụ thể hơn về việc khi thuế MFN giảm thì lực nhập khẩu thép vào Việt Nam sẽ tăng tạo ra sức ép như thế nào đến sản xuất trong nước và giá thép liệu có giảm nhiệt?

Ông Nghiêm Xuân Đa: Về nguyên tắc chung khi cắt giảm thuế nhập khẩu rõ ràng sẽ tạo điều kiện cho sản phẩm thép nhập khẩu dễ dàng vào Việt Nam hơn và sẽ tạo nên áp lực cạnh tranh cho các sản phẩm thép trong nước do đó các DN trong nước buộc phải cải tiến để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.

Xuất khẩu 6,5 triệu tấn thép trong 10 tháng

Các doanh nghiệp thép Việt Nam đã nỗ lực để phát triển thương hiệu sản phẩm thép Việt Nam xuất khẩu ra thị trường khu vực và thế giới nhằm phát huy hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. 10 tháng/2021, Việt Nam đã xuất khẩu 6,5 triệu tấn thép các loại đến các quốc gia Đông Nam Á, Hoa Kỳ, EU… kể cả Trung Quốc, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2020.

Cụ thể, đối với mặt hàng thép xây dựng công suất của Việt Nam là 18 triệu tấn, năm 2020, Việt Nam sản xuất 12 triệu tấn. Riêng thép xây dựng nếu có cơ chế tốt thì Việt Nam có khả năng xuất khẩu. Đối với thép tôn mạ, công suất 9,6 triệu tấn, sản xuất năm 2020 là 4,6 triệu tấn.

Như vậy, 2 mặt hàng vừa điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu MFN hiện nay có nguồn cung trong nước đã đáp ứng hoàn toàn được nhu cầu thị trường nội địa. Các doanh nghiệp thép Việt Nam cũng đã nỗ lực để phát triển thương hiệu sản phẩm thép Việt Nam xuất khẩu ra thị trường khu vực và thế giới nhằm phát huy hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.

Sau khi đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước, Việt Nam cũng đã đẩy mạnh xuất khẩu. Việt Nam đã ký 15 FTA với các quốc gia, trong đó đều tuân thủ các quy tắc thương mại, thì mặt hàng thép xuất khẩu cũng đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng và xuất xứ hàng hóa để gia tăng xuất khẩu.

Quý III/2021, thép xây dựng nhu cầu thấp, tiêu thụ nội địa giảm mạnh, ngành thép đã phải cố gắng duy trì sản xuất và tìm cách xuất khẩu, hạn chế sức ép dư cung. Tuy nhiên, giá thép trên thị trường đứng ở mức cao còn có nguyên nhân nguyên liệu đầu vào sản xuất thép trên thế giới đang ở chu kỳ giá cao cộng hưởng hoạt động của nhiều ngành kinh tế đang có dấu hiệu hồi phục sau dịch Covid-19.

PV: Bước vào sân chơi quốc tế sẽ xảy ra 2 tình huống: nếu nhà nước mãi bảo hộ sẽ khiến DN “không lớn”, nhưng nếu mở rộng cửa, giảm thuế nhập khẩu thì DN chịu áp lực cạnh tranh của hàng ngoại nhập, buộc phải thích ứng, phát triển. Vậy ngành thép Việt Nam đã có giải pháp nào để đứng vững phát triển, thưa ông?

Ông Nghiêm Xuân Đa: Hiện nay, Việt Nam đã tham gia 15 FTA điều này vừa tạo ra cơ hội gia tăng xuất khẩu cũng như đòi hỏi các ngành sản xuất phải thích ứng để phát triển…

Nghị định 101/2021/NĐ-CP đã được ban hành, ngành thép ủng hộ, tuân thủ và sẽ triển khai có hiệu quả trong thời gian tới. Chúng tôi xác định đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội đòi hỏi DN sản xuất thép không ngừng đổi mới công nghệ, giảm chi phí giá thành nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hậu Covid-19 hiện nay.

Bên cạnh đó, chúng tôi cũng kiến nghị Chính phủ, đề nghị các bộ, ngành liên quan chủ trì xây dựng và sớm ban hành tiêu chuẩn quốc gia đối với các sản phẩm tôn mạ, tôn phủ màu. Đồng thời, hướng dẫn quy trình tham gia của các bên như cơ quan nhà nước, hiệp hội, DN để có tiêu chuẩn quốc gia phù hợp với xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay. Quy chuẩn Việt Nam cũng cần thích ứng với tiêu chuẩn của các quốc gia khác để sản phẩm Việt Nam có thể đẩy mạnh, bán ra thị trường nước ngoài.

Điều quan trọng nữa là đối với ngành thép việc đầu tư sản xuất, kinh doanh được thực hiện theo chiến lược dài hơi, nên rất mong muốn những thay đối về mặt chính sách của Nhà nước (ví dụ như chính sách thuế xuất nhập khẩu) đến ngành thép được thực hiện có lộ trình, để DN sản xuất thép có thời gian điều chỉnh kế hoạch và thích ứng.